Đăng bởi ĐẤU TRƯỜNG DÂN CHỦ ĐA CHIỀU lúc Wednesday, October 05, 2016 , 0 bình luận

Thực tiễn khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng lãnh đạo bằng đường lối và trong mỗi thời kỳ, đường lối của Đảng luôn có sự bổ sung, phát triển phù hợp, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ đó.
Trên cơ sở đánh giá tình hình thế giới, trong nước, Đại hội XII của Đảng đề ra đường lối, quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; trong đó Nghị quyết xác định nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong nhiệm kỳ 2016 - 2020 là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”1. Đây là quan điểm cơ bản, thể hiện sự phát triển tư duy, nhận thức lý luận của Đảng về thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, phát triển. Quan điểm của Đảng làm rõ và sâu sắc hơn về chủ trương, biện pháp, phương châm chỉ đạo cũng như mục tiêu, yêu cầu đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta biết, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước là lợi ích cao nhất của quốc gia. Bất cứ thế lực nào xâm phạm, xâm hại đến lợi ích tối cao đó, chúng ta đều phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh đến cùng. Đây là quan điểm nhất quán và cũng là nguyên tắc chỉ đạo chiến lược của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Trước tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, cùng với đó là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta thì việc quán triệt, thấu suốt, nắm vững quan điểm trên của Đảng lại càng quan trọng. Có như vậy mới bảo đảm trong quá trình thực hiện quan điểm của Đảng đúng định hướng, đạt được mục tiêu, yêu cầu.


Đại tướng Ngô Xuân Lịch phát biểu kết luận tại Hội nghị cán bộ chủ chốt toàn quân học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. (Ảnh: mod.gov.vn)

Quan điểm trên không phải bây giờ mới có, mà suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, quan điểm, tư tưởng “kiên quyết, kiên trì” đã xuất hiện và tồn tại . Trên thực tế, ông cha ta không chỉ đánh địch bằng nghệ thuật quân sự độc đáo - “mưu, kế, thế, thời”, “lấy nhỏ thắng lớn, yếu chống mạnh, ít địch nhiều”, mà còn bằng cả lòng quả cảm, trí thông minh, sáng tạo, tài thao lược cùng tư tưởng giữ nước đặc sắc: Nghệ thuật quân sự Việt Nam để đấu tranh giành và giữ nền độc lập dân tộc, bảo vệ “giang sơn bờ cõi”. Đây cũng là bản sắc mang tính đặc thù của tư tưởng nghệ thuật quân sự Việt Nam và là nội dung, bộ phận hợp thành của quan điểm “dựng nước đi đôi với giữ nước” được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, trở thành quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc ta.
Trên cơ sở nắm vững quy luật, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ Pháp thuộc, cả dân tộc sống trong đêm trường nô lệ, khi chưa giành được chính quyền thì kiên trì chuẩn bị thực lực cách mạng, chờ thời cơ và triệt để tận dụng thời cơ để kiên quyết đứng lên thực hiện Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) thắng lợi, giành chính quyền về tay nhân dân. Tiếp đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hưởng ứng lời Kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946), nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược kéo dài 30 năm đầy hy sinh, gian khổ, với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Như vậy, kiên quyết, kiên trì đấu tranh để giành thắng lợi cuối cùng là kinh nghiệm quý của dân tộc và quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng ta; đồng thời là nhân tố tạo nên sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh. Nhưng, như vậy không có nghĩa quan điểm Nghệ thuật quân sự Việt Nam được xác định tại Đại hội XII của Đảng không có gì mới, mà trái lại, rất mới và sáng tạo. Điều đó được thể hiện ở chỗ, Đảng ta đã kế thừa, vận dụng sáng tạo quan điểm, tư tưởng giữ nước mang tính truyền thống của dân tộc, của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước trong tình hình mới. Đó là kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, được biểu hiện cụ thể ở việc kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước.
Khi nghiên cứu, quán triệt quan điểm trên, có thể sẽ có người đặt vấn đề: Đã kiên quyết đấu tranh sao lại còn kiên trì, điều này có mâu thuẫn gì không? Giữa kiên quyết và kiên trì có quan hệ như thế nào? Câu trả lời là không! Không những kiên quyết không hề mâu thuẫn với kiên trì mà còn có quan hệ chặt chẽ với nhau nên nhất thiết phải như vậy. Có điều cần nhấn mạnh nữa là các cuộc chiến tranh chống kẻ thù xâm lược để giành và giữ nền độc lập dân tộc, bảo vệ đất nước trong lịch sử, cũng như trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đều diễn ra hết sức quyết liệt và trước kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự hơn hẳn, nếu chúng ta thiếu kiên quyết và kiên trì thì sẽ khó có thể giành được thắng lợi, thậm chí thất bại.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh có những cuộc chiến tranh diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng cũng có cuộc chiến tranh kéo dài, dân tộc ta phải luôn nêu cao ý chí kiên quyết đấu tranh, trường kỳ kháng chiến, đó là điều kiện tiên quyết, cùng với sự kiên trì mới giành được thắng lợi cuối cùng. Với 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, trong hoàn cảnh không cân sức, nhưng với ý chí quyết tâm cao, quân và dân ta đã đập tan âm mưu biến nước ta thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trước ý đồ muốn “đánh nhanh thắng nhanh” của địch, quân và dân ta đã kiên quyết đứng lên, dám đánh và quyết thắng Mỹ; kiên trì kháng chiến, sử dụng đa dạng các hình thức tác chiến, củng cố và phát triển lực lượng, phối hợp đa dạng các hình thức, biện pháp đấu tranh: quân sự, chính trị, ngoại giao,… cuối cùng chúng ta đã giành thắng lợi hoàn toàn. Kiên quyết là điều kiện cần và kiên trì là điều kiện đủ, hai nhân tố đó hợp thành một thể hoàn chỉnh, thống nhất. Chúng ta sẽ không đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, nếu thiếu đi cả hai hoặc một trong hai điều kiện đó. Như vậy, trong vấn đề này, không hề có sự mâu thuẫn giữa kiên quyết và kiên trì; trái lại, hai nhân tố đó còn có mối quan hệ biện chứng, không tách rời nhau, thúc đẩy lẫn nhau. Trong đó, kiên quyết biểu thị ý chí, quyết tâm cao độ và thái độ không khoan nhượng trong đấu tranh với các thế lực thù địch để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, hoặc những vấn đề liên quan đến sự mất còn của Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa; kiên trì là biểu thị sự bền bỉ, mềm dẻo, linh hoạt, khôn khéo trong xử lý, giải quyết các vấn đề nêu trên. Có thể nói, kiên quyết là tư tưởng chỉ đạo hành động cụ thể, còn kiên trì là phương châm, đối sách, sách lược, cách thức tiến hành đấu tranh nhằm đạt mục tiêu đã xác định; kiên trì hoàn toàn trái nghĩa với sự nóng vội, thỏa hiệp, nhân nhượng. Từ phân tích trên, chúng ta còn thấy rõ quan điểm Nghệ thuật quân sự Việt Nam của Đảng có giá trị lý luận, được thực tiễn kiểm nghiệm và có ý nghĩa thời đại sâu sắc.
Nội hàm của quan điểm rất rộng, tựu trung nổi lên hai vấn đề cơ bản, đó là: thứ nhất, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thứ hai, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đây cũng là nội dung cốt lõi của bảo vệ Tổ quốc, nhằm hướng tới mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Thời gian tới, trên thế giới, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng tình hình sẽ có những thay đổi nhanh, diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định rất khó lường. Tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ trên Biển Đông có diễn biến phức tạp mới, không thể xem thường; cùng với đó là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” đối với nước ta. Tình hình trên tác động trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trong bối cảnh đó, hơn bao giờ hết, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải tăng cường đoàn kết, thống nhất, nhận thức rõ tình hình, nhiệm vụ; quán triệt, nắm vững quan điểm kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Trên cơ sở đó, triển khai đồng bộ các giải pháp; tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tiếp tục quán triệt đường lối, quan điểm về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng, kết hợp với đẩy mạnh giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân, nhằm thống nhất nhận thức và hành động đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, nhằm tạo sự thống nhất nhận thức, tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đối với việc thực hiện quan điểm Nghệ thuật quân sự Việt Nam của Đảng nói riêng, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung. Việc hoạch định, xây dựng đường lối, quan điểm, chủ trương có ý nghĩa rất quan trọng, nhưng việc tổ chức thực hiện đường lối cũng quan trọng không kém. Đường lối của Đảng có đúng đắn, sáng tạo đến mấy, nhưng nếu không được tuyên truyền, quán triệt để thấm sâu vào từng tổ chức và mỗi người, không được cụ thể hóa trong thực tiễn đời sống xã hội thì sẽ không có kết quả. Vì thế, phải coi trọng việc tuyên truyền, quán triệt để cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng. Trọng tâm là quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội và Chính phủ về quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc; nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; trong đó, có quan điểm “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường, hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”, tạo cơ sở cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tổ chức thực hiện đảm bảo đúng định hướng, đạt hiệu quả.
Cùng với đó, phải đẩy mạnh giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và trách nhiệm đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đáp ứng yêu cầu cao của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thời gian qua, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, nhất là cấp ủy, chính quyền địa phương, Quân đội và Công an, công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh đã được triển khai thực hiện nền nếp, đạt hiệu quả thiết thực. Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục phát huy kết quả đã đạt được, nghiêm túc rút kinh nghiệm, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm để không ngừng nâng cao chất lượng công tác quan trọng này. Trong đó, chú trọng đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh sát với địa bàn, đối tượng, đặc biệt là cán bộ thuộc diện đối tượng 1 do Trung ương quản lý.
Hai là, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về đối tác, đối tượng, tạo cơ sở cho việc thực hiện tốt quan điểm Nghệ thuật quân sự Việt Nam của Đảng.
Để thực hiện có hiệu quả quan điểm Nghệ thuật quân sự Việt Nam của Đảng, điều quan trọng là phải nhận thức đúng về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đảng ta chỉ rõ: những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của cách mạng Việt Nam.
Quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng là hoàn toàn đúng và rất rõ ràng. Điều đó thể hiện sâu sắc tư duy biện chứng, khoa học của Đảng ta. Vấn đề quan trọng đặt ra là cán bộ, đảng viên và nhân dân, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp từ Trung ương đến địa phương, cơ sở phải quán triệt, nắm vững quan điểm của Đảng, nhận thức đúng, phân biệt rõ đối tác, đối tượng. Có như vậy, chúng ta mới có cơ sở để kiên quyết, kiên trì đấu tranh với đối tượng xâm phạm, xâm hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc; đồng thời, mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các đối tác của chúng ta vì lợi ích của đất nước, góp phần vào đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng quốc tế.
Ba là, thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố quốc phòng - an ninh vững mạnh, không ngừng nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước, làm cơ sở cho việc thực hiện quan điểm Nghệ thuật quân sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc phải trên cơ sở phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của cả nước. Đó là sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân, của thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc phát triển ở trình độ cao; khi đất nước xảy ra chiến tranh thì “cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc”, thực hiện chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt, v.v. Vì thế, phải thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố tiềm lực quốc phòng và an ninh vững mạnh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ sơ sở; đồng thời, đẩy mạnh xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh, đặc biệt là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm về quốc phòng, an ninh.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, ưu tiên một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; đảm bảo cho Quân đội và Công an có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân và là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Trong tình hình hiện nay, hơn bao giờ hết, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân phải phát huy cao độ truyền thống đoàn kết, phối hợp chặt chẽ giữa hai lực lượng làm nòng cốt cho toàn dân đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Trước hết, phải đặc biệt coi trọng và có giải pháp phòng chống, ngăn ngừa hiệu quả thủ đoạn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội và Công an của chúng; trên cơ sở đó, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội và Công an, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong lực lượng vũ trang nhân dân.
Xét về bản chất, quốc phòng là công cuộc giữ nước, nhằm đối phó với các mối đe dọa từ bên ngoài; còn an ninh là công cuộc bảo đảm an ninh quốc gia, đối phó với các nguy cơ mất ổn định chính trị - xã hội từ bên trong. Sự kết hợp quốc phòng với an ninh không có gì khác là nhằm đảm bảo “trong ấm, ngoài êm”. Sự kết hợp đó được biểu hiện tập trung thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa Quân đội và Công an - lực lượng nòng cốt của sự nghiệp quốc phòng và an ninh. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của mình, trong thời gian tới, hai lực lượng cần đề cao hơn nữa trách nhiệm, tăng cường hơn nữa sự phối hợp trong mọi hoạt động quốc phòng và an ninh, góp phần thực hiện thắng lợi quan điểm Nghệ thuật quân sự Việt Nam của Đảng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới.
Bốn là, chủ động hội nhập quốc phòng, an ninh, đối ngoại, góp phần tăng cường thế và lực của đất nước để thực hiện có hiệu quả quan điểm Nghệ thuật quân sự Việt Nam, “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” của Đảng.
Hội nhập về quốc phòng, an ninh, đối ngoại là quan điểm nhất quán, kiên định của Đảng ta và đã trở thành một bộ phận quan trọng trong tiến trình xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về hội nhập quốc tế, trong thời gian tới, chúng ta cần tăng cường hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong đó, coi trọng phát huy các cơ chế hợp tác song phương và đa phương, nhất là cơ chế hợp tác với các nước thành viên trong Cộng đồng ASEAN như: Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng (ADMM, ADMM+), cơ chế hợp tác quốc phòng và an ninh với các nước ngoài khu vực - Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF); đồng thời, chủ động và tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc phòng ở mức cao hơn, như: Hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa, tuần tra chung, diễn tập chung trên biển về chống cướp biển, chống khủng bố, cứu nạn, cứu hộ và các hoạt động khác; củng cố quan hệ quốc phòng giữa nước ta với các nước trong khu vực, xây dựng lòng tin chiến lược, phát huy hiệu quả sự đồng thuận của các quốc gia trong Cộng đồng ASEAN; chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương. Hội nhập về quốc phòng, an ninh, đối ngoại cần gắn kết chặt chẽ với hội nhập kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trong đó lấy hội nhập về kinh tế là trọng tâm. Đây là quan điểm vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào tình thế bị động, đối đầu, bất lợi; góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước, gia tăng sự hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau trong đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống và ngăn ngừa xung đột vũ trang, chiến tranh. Như vậy, hội nhập về quốc phòng, an ninh, đối ngoại là tiền đề quan trọng để thực hiện tốt quan điểm Nghệ thuật quân sự Việt Nam, “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” của Đảng, góp phần tăng cường thế và lực cho đất nước trong tình hình mới.
Quán triệt và thực hiện quan điểm kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nỗ lực, đoàn kết, đồng thuận của nhân dân cả nước, cùng những thành công, những kinh nghiệm quý báu thu được từ thực tiễn cách mạng, nhất là trong những năm vừa qua, chúng ta tin tưởng rằng, quan điểm trên của Đảng sẽ được triển khai thực hiện một cách sáng tạo, hiệu quả trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng/Tạp chí Quốc phòng toàn dân
____________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 433.

Tags:

Lưu ý: Khi để lại Nhận xét bạn nên click vào ô "Thông báo cho tôi" ở dưới để nhận phản hồi từ Admin

Học tiếng anh
Floating Image X