(Tindautruongdanchu) - “ Việt Nam đạt “huy chương đồng” với thứ hạng 178/190 quốc gia không có tự do báo chí” là nội dung trên trang mạng Việt Tân đăng tải ngày 03/5/2023 với mục địch xuyên tạc, phủ nhận những nỗ lực, thành quả của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận cho công dân.
Thời
gian qua, các phần tử phản động,
chống đối trong và ngoài nước đã lợi dụng không gian
mạng để xuyên tạc về vấn đề tự do báo chí tại Việt Nam. Nhân danh “tự do báo chí” theo
tiêu chuẩn phương Tây, chúng tung ra các bài viết, clip, ảnh và đủ thứ tư liệu
ngụy tạo, bịa đặt để nhằm tuyên truyền chống lại Đảng, Nhà nước và Nhân dân
Việt Nam…Chúng đưa ra những luận điểm quy kết,
vu khống Việt Nam không có tự do báo chí thông qua cái gọi là “Bảng xếp hạng
chỉ số tự do báo chí thường niên”, xếp báo chí Việt Nam luôn ở vị trí áp chót
bảng. Mỗi khi các loại “bảng xếp hạng”, “báo
cáo”, “thống kê” này được công bố, trang mạng Việt Tân và các thế lực phản
động mừng như “bắt được vàng” và ngay lập tức khai
thác, sử dụng để phục vụ cho mưu đồ xấu xa, thâm độc của chúng.
Sau
khi đất nước độc lập, quyền tự do báo chí được hiến định, coi trọng, bảo đảm.
Năm 1946, Quốc hội thông qua bản Hiếp pháp đầu tiên, Điều 10 ghi rõ: “Công dân
Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp;
tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Những
quyền cơ bản này đã được hiến định xuyên suốt trong các bản Hiến pháp của Việt
Nam. Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền
này do pháp luật quy định”. Luật Báo chí năm 2016 quy định về trách nhiệm của
Nhà nước đối với quyền tự do báo chí: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công
dân thực hiện quyền tự do báo chí; Nhà nước thực hiện việc bảo hộ đối với hoạt
động của nhà báo trong khuôn khổ pháp luật và báo chí không bị kiểm duyệt trước
khi in, truyền dẫn và phát sóng. Các nghị định, thông tư và các văn bản dưới
luật cũng được ban hành để thực thi quyền tự do báo chí của nhiều đối tượng
trong từng hoàn cảnh một cách phù hợp. Xét về khía cạnh luật pháp, quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin đã được thể chế hóa một
cách toàn diện, đầy đủ, dễ thực hiện, đi vào thực tế cuộc sống.
Vai
trò của báo chí ngày càng được nâng cao, vừa là công cụ để Đảng và Nhà nước
điều hành, quản lý xã hội, vừa là phương tiện để mọi người dân thỏa mãn những
nhu cầu về giải trí, văn hóa, nâng cao tri thức, làm cho con người có đủ thông
tin, cơ sở để thấu hiểu lẫn nhau, thực hiện đoàn kết dân tộc. Báo chí cũng trở
thành vũ khí để Đảng và nhân dân lên án, chống lại, xóa bỏ những tệ nạn, tiêu
cực trong xã hội, những hành vi vi phạm pháp luật, những cá nhân, tổ chức tham
nhũng, thoái hóa, biến chất làm ảnh hưởng đến lợi ích của Tổ quốc, của nhân
dân. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh vai trò và nhiệm vụ quan trọng của báo chí
là: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đường lối, chủ trường của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; chủ động định hướng thông tin tuyên truyền của Đảng và
đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”
Quan điểm cho rằng báo chí phương Tây
rất tự do, không bị kiểm soát, giới hạn là sai lầm. Thực tế ở Mỹ, nền báo chí
bị hạn chế bởi giới quân sự. Người dân Mỹ không được tiếp cận thông tin về tình
trạng của người dân vô tội ở các nước Mỹ tấn công quân sự. Ở Pháp, trong bản
“Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền Pháp năm 1789” cũng xác nhận rằng bất kỳ
công nhân nào cũng có quyền tự do nói hoặc viết theo ý mình, nhưng sẽ phải chịu
trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do đó theo quy định của pháp luật. Ở Anh, hầu
hết các bài phát biểu hay bài đăng báo có nội dung công kích chủ quyền, chính
phủ, Hiến pháp, kích động sự bất bình trong xã hội đều bị coi là vi phạm pháp
luật.
Quan điểm nền báo chí phương Tây cho
phép ai cũng có quyền mở kênh thông tin của mình là sai thực tế vì gần như chỉ
có những người có tiền và quyền lực mới đủ điều kiện thực hiện hoạt động đó.
Như vậy, trạng thái thông tin và những định hướng dư luận của báo chí phương
Tây luôn phụ thuộc vào tầng lớp người giàu và người có quyền lực, trong khi
những người này mở các kênh báo chí chủ yếu để thu lợi nhuận. Rõ ràng, báo chí
phương Tây không ở trong tay người dân, không được chia đều cho tất cả cá nhân
trong xã hội mà bị kìm kẹp bởi những cá nhân, tổ chức có tiềm lực về tài chính
cũng như chính trị.
Những quan niệm về tự do báo chí tư
sản cũng không phù hợp để sử dụng trong thời đại mà hầu hết tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội đều có sự thay đổi nhanh chóng, phức tạp, nhiều vấn
đề, hiện tượng, tình huống trong cuộc sống diễn ra theo nhiều cách không thể
kiểm soát, vượt khỏi tầm suy nghĩ, tính toán, ước lượng của bất kỳ chính quyền
nào.
Dù có cố
gắng đến đâu thì các thế lực thù địch cũng không thể đảo ngược được thực tế,
không thể ngăn cản được con đường đi lên XHCN của dân tộc Việt Nam. Sự thật chỉ
có một, đó là sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền báo chí Việt Nam nói
riêng và của đất nước Việt Nam nói chung với vị thế, vai trò ngày càng được
nâng cao trên trường quốc tế.
Có thể khẳng
định rằng, việc các cơ quan báo chí và đội ngũ nhà báo tham gia đấu tranh phản
bác các quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch về tự do báo chí ở Việt Nam vừa
là trách nhiệm chính trị vừa là đạo đức, văn hóa nghề nghiệp nhằm góp phần cùng
cả hệ thống chính trị bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, qua đó cho thấy sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền báo
chí Việt Nam nói riêng và của đất nước Việt Nam nói chung với vị thế, vai trò
ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế./.
HUY.
VĂN
