Vừa
qua, việc xuất bản cuốn hồi ký Xứ Đông Dương của Paul Doumer (P.Đu-me,
1857 - 1932) - toàn quyền Đông Dương giai đoạn 1897 - 1902, đã thu hút
sự chú ý của nhiều người. Trên một số tờ báo, nội dung cuốn sách được
giới thiệu chi tiết: “Đó là quá trình xây dựng những cây cầu Long Biên
bắc qua sông Hồng, cầu Thành Thái (Tràng Tiền) tại sông Hương hay cầu
Bình Lợi trên sông Sài Gòn. Đó là sự quyết tâm của Doumer trong việc
xây dựng tuyến đường sắt xuyên Việt. Đó là việc Hà Nội, dưới thời cai
trị của Paul, trở thành thành phố châu Á đầu tiên có điện”… Cùng với đó
là lời ca ngợi: “Công bằng mà nói, P.Doumer đã làm được rất nhiều việc
cho xứ Đông Dương”, “chính ý chí, quyết tâm, lòng kiên trì và tầm nhìn
xa của một chính khách không coi thuộc địa mình cai trị như một nơi để
bóc lột, mà ngược lại là mảnh đất để thực hiện những tham vọng đã góp
phần tạo nên những công trình ấy... Và hơn cả việc gìn giữ một cuốn
sách đặc biệt, việc chuyển thể Xứ Đông Dương thuộc Pháp cũng là một
cách tri ân những đóng góp của chính P.Doumer với Việt Nam, hay mong
mỏi về việc tái hiện lại một Đông Dương rất đáng nhớ trong ký ức của
không ít người”, “Những suy nghĩ và đánh giá của ông rất sâu sắc và rất
khác với cách suy nghĩ của nhiều tác giả khác ở Đông Dương. Bởi vậy,
cuốn hồi ký của ông tái hiện một góc nhìn rất mới về một giai đoạn lịch
sử của Việt Nam nói riêng và các nước Đông Dương nói chung giai đoạn
từ 1897 - 1902”… Các “thành tích” được liệt kê, ngợi ca như vậy rất dễ
khiến người đọc lầm tưởng P.Doumer đã có công “khai sáng” cho Việt Nam
trong giai đoạn làm toàn quyền tại Đông Dương.
Ảnh minh hoạt
Có một sự thật không ai có thể phủ nhận là P.Doumer đến Việt Nam với
vai trò một viên quan thực dân và đương nhiên, ông phải tìm mọi cách để
phục vụ lợi ích của nước Pháp. Trên thực tế, trong thời gian ở Việt
Nam ông đã rất mẫn cán “bình định” bằng bất cứ giá nào, rồi xây dựng bộ
máy cai trị thực dân thay thế chế độ cai trị của nhà Nguyễn, khai thác
tài nguyên, bóc lột đến cùng kiệt sức lao động của người bản xứ.
“Công tích” của P.Doumer trong mấy năm ở Đông Dương rất cụ thể: “Dưới
triều đại P.Doumer, 3 sắc thuế được đẩy mạnh hết mức là thuốc phiện,
muối và rượu. Của cải bòn rút từ người dân qua 3 sắc thuế ấy đóng vào
ngân sách thuộc địa tăng từ 20 triệu đồng Đông Dương (Đ) năm 1899 lên 33
triệu Đ năm 1902, rồi vọt lên 42 triệu Đ năm 1911. Lợi nhuận của Ngân
hàng Đông Dương cũng tăng theo chiều thuận với tăng thuế. Theo một nhà
sử học Pháp, “công tích chính của Doumer tại Đông Dương” là tăng thuế. Ở
Trung Kỳ, thuế thân và thuế ruộng đất trước ngày ông tới Việt Nam nhậm
chức mới 83.000 Đ, sau đó vọt lên 2 triệu Đ năm 1899 - năm thứ 2 nhiệm
kỳ toàn quyền. Ở Bắc Kỳ, 2 sắc thuế ấy cũng tăng nhanh, đạt gần 5
triệu Đ năm 1907. Trong khi đó, mọi loại thuế má người Pháp làm việc
tại Đông Dương phải đóng góp vào ngân sách vỏn vẹn có 9.000 Đ/năm! Ở
Nam Bộ, công cuộc khai thác và tập trung hóa ruộng đất đẩy nhanh hết cỡ:
Từ 522.000 ha ruộng lúa năm 1880 tăng vọt lên 1.175.000 ha 10 năm sau.
Lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long trở thành nguồn xuất khẩu lớn nhất
châu Á. Trên thực tế, P. Doumer đã tạo dựng cơ sở để khi chiến tranh
thế giới nổ ra, nước Việt Nam nghèo đói phải oằn mình cho “rồng Nam
phun bạc, đánh đổ Đức tặc”, phục vụ chiến thắng của mẫu quốc” (Phan
Quang: P.Doumer: Ba mặt một con người - báo Người lao động,
11.10.2009), “năm 1897, chỉ trong vài tuần lễ, một cơn mưa đá thực sự đổ
xuống. Tăng thuế thân và thuế địa ốc, thuế của những người không đăng
ký, thuế đăng ký sắc phong của các quan, thuế diêm, thuế quế, thuế giấy
có đóng dấu, thuế muối, rượu, thuyền trên sông, giấy phép đốn gỗ, thuế
thuốc lào, thuế cau, thuế củi, thậm chí cả thuế rơm thuế rạ để lợp
những cái lều thảm hại nhất...” (trích từ cuốn Những sai lầm và nguy
hiểm, NXB Charpentier, 1902, tác giả là đại úy Fernand Bernard). Và
không có gì đáng tin hơn về tội ác của người Pháp dưới quyền P. Doumer
đã thực hiện ở Việt Nam qua lời kể của viên đại úy kể trên viết trong
bức thư gửi về Pháp ngày 1-1-1898: “vào hôm sau ngày xảy ra vụ manh động
cho chặt và bêu 54 cái đầu. Trong vài ngày tiếp theo, người ta đã hành
hình 200 người An Nam, trong số đó có cả những đứa nhóc 14 tuổi, với
cái tội là đã làm rối giấc ngủ của những vị quan cai trị của chúng ta…
Tất cả những điều này thật đáng nôn mửa” (Người Pháp và người Annam -
Bạn hay thù? - P. Devillers, Ngô Văn Quỹ dịch, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí
Minh, 2006)…
Như vậy, liệu có thể coi nỗ lực mở đường, xây cầu, tăng cường giao
thương mà P.Doumer đã tiến hành là vì sự phát triển của Việt Nam? Câu
trả lời là không! Chính ông ta nói rõ trong hồi ức của mình về động cơ
của những việc làm này: “Toàn quyền Đông Dương phải tìm cách tạo ra
các nguồn tài chính cần thiết cho việc xây dựng mạng đường sắt bằng
cách tăng thêm các khoản thu ở những xứ thành viên của Đông Dương có
ngân sách thu ít nhất. Như thế mới gây được niềm tin cho giới tư bản ở
Pháp. Chính họ mới là chỗ dựa của chúng ta, chúng ta phải kêu gọi họ
tới đầu tư ở Đông Dương dưới dạng này hay một dạng khác”. (Nguyễn Văn
Trường trích dịch từ cuốn L’Indochine Française (Souvenirs) NXB Vuibert
& Nony, Paris, 1903). Từ góc nhìn đó sẽ thấy việc chính quyền thực
dân ở Việt Nam dưới sự điều hành của P.Doumer xây dựng hệ thống giao
thông nhằm phục vụ quá trình khai thác thuộc địa thuận lợi hơn; mở mang
các khu đô thị hành chính để thiết lập bộ máy cai trị của chế độ thực
dân,… Tương tự, việc P. Doumer khảo sát cao nguyên Langbiang lập ra TP
Đà Lạt, lắp điện ở Hà Nội, xây nhà bưu điện, nha khí tượng, nhà thương
đều để phục vụ người Pháp chứ không dành cho người bản xứ… Vì vậy thật
là nực cười nếu gắn cho P.Doumer “công trạng xây dựng, mở mang, phát
triển” Việt Nam, mà quên (cố tình quên?) ông thật sự là ai!
Rất nhiều thí dụ trong lịch sử nhân loại đã chứng minh hệ quả của các
hành vi vô thức lịch sử, nằm ngoài mục đích nhưng ngẫu nhiên có tác
dụng nào đó với hậu thế. Nên đánh giá P.Doumer, hay bất kỳ nhân vật
lịch sử nào cũng cần tiếp cận một cách toàn diện, cần phân biệt giữa
mục đích hành động với hệ quả ngẫu nhiên hành động đó đem lại để tránh
rơi vào xét đoán cảm tính, chủ quan, lấy cái bộ phận thay cái toàn thể
rồi khẳng định là “người có công lớn”, “cần tri ân”. Với việc làm của
P. Doumer, những gì ông chỉ đạo tiến hành có thể ngẫu nhiên lại hữu ích
với người Việt Nam sau này cũng không nằm trong mục đích ông nhắm tới.
Ngay cả hồi ký Xứ Đông Dương viết bằng tiếng Pháp, có gì bảo đảm cuốn
sách nhằm mục đích để hàng trăm năm sau người Việt Nam biết về đất nước
mình, về cha ông của mình như thế nào, hay chỉ nhằm giúp các thế hệ
cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam hiểu người Việt Nam hơn, hiểu về
xứ sở này hơn để dễ bề cai trị? Hay như cầu Long Biên, liệu những người
ca ngợi P.Doumer có biết bao nhiêu người Việt Nam phải bỏ mạng khi xây
dựng cây cầu, như bài vè lưu truyền trong dân gian: “Lập mưu xây được
cây cầu - Chế ra cái chụp để mà bơm lên - Bơm hết nước đến bùn đen -
Người chết như rạ, phải len mình vào - Vỡ bơm nước lại chảy vào - Chết
thì mặc chết, ai nào biết không”. Như thế, hơn 6,2 triệu franc mà chính
quyền Pháp đầu tư làm cây cầu không thấm gì so với bao nhiêu cái chết
của người Việt Nam, so với bao nhiêu của cải họ khai thác ở Việt Nam
rồi mang về nước Pháp.
Không quên công lao của những người Pháp chân chính như bác sĩ A.J
Yersin (A.J.Y-éc-xanh), Nhà dân tộc học A.Sallet (A.Xa-lêt), Nhà dân
tộc học G.Condominas (G.Công-đô-mi-nát) đã làm ở Việt Nam, ghi nhận
thành quả như là sản phẩm vô thức lịch sử mà một số người Pháp để lại
và ít nhiều còn hữu ích, nhưng chúng ta không được nhầm lẫn. Khép lại
quá khứ hay nhân danh nghiên cứu lịch sử cũng không được bỏ qua các
nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể. Xâm phạm các nguyên
tắc này sẽ dẫn tới ngộ nhận, nhầm lẫn về sự thật lịch sử, biến đen
thành trắng, biến người có tội thành người có công. Nếu xu hướng này
trở nên phổ biến thì sẽ có lỗi với lịch sử, do đó cần phải lên tiếng để
cảnh tỉnh.
Theo Phạm Nguyễn (báo Nhân dân điện tử)
|