Đăng bởi BÁO ĐẤU TRƯỜNG DÂN CHỦ lúc Thursday, November 15, 2018 , 0 bình luận

(Tindautruongdanchu)-LTS: Sau những 'lùm xùm' quanh việc phát ngôn của một số sử gia và báo chí cố tính 'phỏng vấn' đăng tải những quan điểm đã từng vấp phải sự 'phản đối' về cái gọi là thực thể Việt Nam cộng hòa có nên công nhận là một thực thể độc lập, một chính quyền hợp pháp đã từng tồn tại trong lịch sử Việt Nam hay không. Đấu trường dân chủ xin đăng tải bài viết của tác giả Trần Văn Sẻn về bức tranh đầy đủ nhất về 'thực thể Việt Nam cộng hòa' để có cái nhìn đa chiều hơn, rộng hơn trước khi chúng ta quyết định có nên 'thừa nhận' hay 'không thừa' nhận về thực thể này.


Sao bằng được phải sửa lịch sử để cộng nhận 'Việt Nam cộng hòa là một thực thể'



LTG: Cho đến những ngày cuối cùng của chế độ, VNCH cũng chỉ là con cờ nằm “trong tay” Mỹ, như Kissinger đã khẳng định trong mật điện gửi cho Đại sứ Martin ngày 26 tháng 4, 1975: "Bất cứ điều đình nào cũng phải là giữa Hoa kỳ và phía Bắc Việt chứ không phải giữa Sài gòn và Hà Nội" .

Có người hỏi tôi, vì tôi đã từng sống dưới cả hai chế độ - Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, chế độ nào tốt hơn trong việc phát triển đất nước và mang lại hạnh phúc cho người dân? Tôi trả lời: “Tôi không quan tâm đến việc chọn lựa chế độ, vì chế độ nào cũng có ưu - khuyết điểm, tôi chỉ quan tâm đến việc góp phần xây dựng đất nước mà thôi”. Có người không hài lòng với chế độ xã hội chủ nghĩa ngày nay và mơ tưởng tới chế độ VNCH ngày xưa. Nhưng, vẫn có người cho rằng việc chọn lựa chế độ VNCH không phải là một phương án tốt.



Bài viết này không nhằm mục đích so sánh sự tốt xấu giữa hai chế độ, mà chỉ phân tích tại sao VNCH chưa đem lại niềm tin cho một số người để chọn làm chế độ mẫu mực, cho dù họ không thích chủ nghĩa xã hội. Tuy VNCH đã đem lại hạnh phúc cho một tầng lớp dân chúng miền Nam, nhưng vẫn chưa đem lại hạnh phúc cho những tầng lớp khác. Vì lý do đó, chúng ta thử tìm hiểu để bổ khuyết những gì VNCH chưa thể đem lại cho dân chúng miền Nam. Từ đó, chúng ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm để tránh phải những sai phạm tương tự cho xã hội hiện nay, trên tinh thần xây dựng, chứ không phải để bêu xấu hay căm thù một chế độ.  
Khi phân tích, với uy tín cá nhân, với đạo đức làm người, với trách nhiệm của một công dân nước Việt, tôi hết sức khách quan trong quá trình nghiên cứu tài liệu của cả 2 bên, chủ yếu là của những nhân vật cao cấp trong chính phủ VNCH và của các sử gia uy tín trên thế giới. Chỉ mong sao người Việt nhận chân được sự thật, không còn hận thù lẫn nhau, cùng bắt tay nhau xây dựng đất nước, để giữ gìn bờ cõi, để mọi người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc và để đất nước Việt Nam tự hào sánh vai cùng năm châu bốn bể.
Hãy thảo luận 10 điều căn bản của một đất nước:
Chính nghĩa
Độc lập - tự chủ
Tham nhũng - buôn lậu
Độc tài
Đảo chính
Dân chủ - Nhân quyền
Tôn giáo
Biểu tình
Quân dịch
 Giáo dục

Bài 1:  Chính quyền Việt Nam cộng hòa không bao giờ là chính nghĩa (bài 1)

Một quy luật đặc thù của lịch sử Việt Nam: HỄ ĐÃ PHI DÂN TỘC THÌ THẾ NÀO CŨNG PHẢN DÂN TỘC. Trước năm 1955, nước Việt Nam có danh hiệu là “Quốc Gia Việt Nam” với cựu hoàng Bảo Đại làm Quốc trưởng. Sau hiệp định Geneve 1954, Ngô Đình Diệm được Vatican và Mỹ đưa lên (Hồng y Francis Spellman, Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield, và Ngoại trưởng John Foster Dulles.) Năm 1951, Tại New York, Hồng Y Spellman giới thiệu ông quan - tự lưu vong - Ngô Đình Diệm với chính giới Mỹ, gồm thượng nghị sĩ Michael Mansfield, thẩm phán tối cao pháp viện William O. Douglas, trùm CIA Allen Dulles, cha con Joseph Kennedy, tất cả là tín đồ công giáo. Năm 1954, CIA gửi Edward Landsdale qua Saigon hóa phép “trưng cầu dân ý” truất phế Bảo Đại - ủng hộ thủ tướng Ngô Đình Diệm. Landsdale đề nghị tỷ lệ đắc cử là 70%, ông Diệm không đồng ý, đòi phải đạt được 92.2%, con số cao hơn cả số cử tri ghi danh. [1]) nâng đỡ đưa về miền Nam Việt Nam để lên nắm chính quyền với mục đích xóa bỏ hiệp định Geneve – nhiều sử gia cho rằng việc này xảy ra là vì Hoa Kỳ muốn bảo vệ quyền lợi nước Mỹ chứ không vì tự do, hạnh phúc cho miền Nam [2][3]. Diệm đổi tên nước thành “Việt Nam Cộng Hòa” vào năm 1955. Với ý định nắm lấy quyền lực vĩnh viễn, Diệm không chịu thi hành hiệp định Geneve vì biết chắc rằng mình sẽ thất cử nếu có tổng tuyển cử, sự lo sợ của Diệm được Leo Cherne ghi nhận trong báo Look ngày 19-1-1955 rằng: “Nếu tổ chức đầu phiếu hôm nay thì phần lớn người Việt (miền Nam) sẽ bỏ cho Cộng sản … Chúng ta biết làm được gì?” [4]. Sự việc này cũng được linh mục Trần Tam Tỉnh nhận định trong tác phẩm Thập Giá và Lưỡi Gươm: Foster Dulles, Tổng Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ, đã viết trong một mật điệp gửi cho phụ tá của ông, ngày 7-7-54, đang tham dự thương nghị Geneve như sau: “Chẳng còn hồ nghi về việc các cuộc bầu cử có thể thống nhất đất nước Việt Nam dưới quyền của Hồ Chí Minh”(Pentagon Papers 46) và tổng thống Eisenhower của Mỹ cũng đã chẳng cả quyết sau này rằng: “Nếu bầu cử xảy ra theo như Hiệp định Geneve đã tiên liệu thì 80% dân chúng miền Nam sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh” [4]. Việc bội ước hiệp định Geneve đã khơi mào cho cuộc chiến cốt nhục tương tàn trong suốt 20 năm và sự bất ổn của miền nam vì lý do tôn giáo (Diệm đàn áp Phật giáo).
Vì vậy, có người cho rằng danh xưng “Việt Nam Cộng Hòa” đi đôi với sự bội ước, nô lệ, và đàn áp tôn giáo (ngoại trừ Thiên Chúa Giáo). Sự nô lệ vào Pháp của gia đình Ngô Đình Diệm được Ngô Đình Thục khẳng định trong một tâm thư gửi Toàn Quyền Pháp - Decoux: “… với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến Annam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ An và Hà Tịnh (… et comme membre d’une famille dont le père a servi la France dès sa première venue en Annam et a exposé maintes fois sa vie pour elle dans les expéditions memées, comme lieutenant de Nguyễn Thân, contre les rebelles commandés par Phan Đình Phùng à Nghệ An et Hà Tịnh)”, “…thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy (…mon père Ngô Đình Khả a eu l’honneur de rendre à la France au péril de sa vie …)” [5]. Riêng Diệm cũng không hề thua kém cha mình, sau khi được Mỹ đưa về nắm quyền, đã từng tuyên bố: “Biên giới của Mỹ không ngừng ở Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, mà kéo dài, ở Đông Nam Á, tới sông Bến Hải, ở vĩ tuyến 17 của Việt Nam, hình thành một biên giới của “thế giới tự do”, cái mà chúng ta đều trân quý” [6]. Có phải qua câu nói này, Diệm đã thừa nhận sẽ dâng miền Nam Việt Nam cho Mỹ để minh chứng cho lòng cúc cung tận tụy của Diệm với Mỹ, hay là để trả ơn vì Mỹ đã chọn Diệm?
Ngoại trừ Thiên Chúa Giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm đã thẳng tay chèn ép các đạo Cao Đài, Hòa Hảo và Phật Giáo. Sự kiện đàn áp Phật Giáo của gia đình họ Ngô, nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của chế độ độc tài gia đình trị, được ghi nhận trong Điện văn từ Tòa Lãnh sự tại Huế gửi về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 9-5-1963 - lúc 3 giờ chiều: Đại Lễ Phật Đản tại Huế ngày 8 tháng 5 đã trở thành một cuộc biểu tình lớn ở Đài Phát Thanh Huế. Lúc 22:45, khoảng 3.000 người tụ tập và bị canh gác bởi 8 xe thiết giáp, một đại đội Dân vệ, một đại đội thiếu quân số của Quân đội VNCH, xe bọc sắt của cảnh sát (At 2245 hours estimated 3,000 crowd assembled and guarded by 8 armored cars, one Company CG, one Company minus ARVN, police armored cars …) [7]. Thiệt hại trong ngày 8-5-1963 tại Huế được ghi nhận là 9 người chết và 14 người bị thương (Subsequent accounts of the May 8 incident in Hue have generally listed the casualties as nine killed and fourteen wounded.) [8]. Có 2 người trong số bị giết là trẻ em, chết vì bị xe thiết giáp cán chết (Two of those killed, both children, died from being crushed by armored vehicles.) [9]. Sự đàn áp Phật Giáo càng leo thang khốc liệt qua việc ông Ngô Đình Nhu chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt và cảnh sát dã chiến tổng tấn công các chùa đêm 20-8 rạng ngày 21-8-1963, bắt giam hơn 1.400 Tăng Ni Phật Tử. Sự việc này đã làm cho:
- Mỹ bất mãn vì ông Diệm không hòa giải với Phật Giáo,
- Quân đội VNCH bất mãn vì bị dân chúng đổ tội tấn công các chùa,
- Tướng Lê Văn Kim, Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần và Chánh Văn Phòng Phủ Tổng Thống Võ Văn Hải đều nói với Mỹ là cần loại ông bà Nhu ra khỏi chính phủ,
- Bộ Trưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu từ chức Ngoại Trưởng, và cạo đầu như một nhà sư để phản đối tấn công chùa,
- Thân phụ bà Nhu là LS Trần Văn Chương từ chức Đại sứ VN ở Hoa Kỳ, thân mẫu bà Nhu là bà Thân Thị Nam Trân từ chức Quan sát viên VNCH ở Liên Hiệp Quốc để phản đối chế độ ông Diệm,
- Ông Cabot Lodge tới VN, nhận chức Đại sứ Mỹ tại VN, tiến hành kế hoạch đảo chánh, muốn giữ ông Diệm trong khi loại trừ ông bà Nhu.
Như thế, việc đàn áp Phật giáo đã phá hủy chính sách Hoa Kỳ và ghi dấu sự khởi đầu của việc kết thúc chế độ của ông Diệm (effectively destroying an American policy and marking the beginning of the end of the Diem regime.) [10].
Ngoài ra, khi phân tích lý do tại sao VNCH sụp đổ, trong khi Nam Hàn vẫn tồn tại, cho dù VNCH nhận được viện trợ từ Hoa Kỳ nhiều hơn. Theo thống kê chưa đầy đủ, Mỹ đã chi 920 tỷ USD (thời giá lúc đó) cho chiến tranh Việt Nam so với 341 tỷ trong thế chiến 2 và 54 tỷ trong chiến tranh với Triều Tiên. Nếu tính theo thời giá hiện nay thì đây là một khoản chi phí khổng lồ [11]. Ông Trần Bình Nam, cựu dân biểu và là thiếu tá quân lực VNCH, đưa ra nhận xét: “Có hai khác biệt căn bản: Nam Hàn có lãnh đạo tốt, trong khi VNCH không có. Các tướng lãnh của VNCH đều là sản phẩm của nền thống trị cuối mùa của Pháp để lại” [12].  Đa số các tướng lãnh này đều xuất thân từ trường sĩ quan do Pháp đào tạo để phục vụ quyền lợi Pháp, cho nên phần đông không có tinh thần dân tộc, không thật sự yêu nước mà chỉ mong cầu danh lợi, thậm chí còn giúp Pháp chống lại người Việt yêu nước. Điển hình là Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Vùng 2 Chiến thuật của VNCH. Ông gia nhập quân đội Quốc gia Việt Nam - đội quân làm tay sai cho Pháp để trấn áp các lực lượng kháng chiến chống Pháp. Ngày 14 tháng 3 năm 1954, ông được cử làm Đại đội trưởng Đại đội 1 của Tiểu đoàn 5. Ngày 25 tháng 4, ông được Pháp đặc cách thăng cấp Đại úy tại mặt trận, do chiến tích của Đại đội ông chỉ huy, đạt được trong nhiệm vụ tái chiếm cứ điểm trọng yếu đồi Elianne trong trận Điện Biên Phủ (Theo "Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ: 24 giờ cuối cùng" - Bernard B. Fall, Vũ Trấn Thủ dịch) [13]. Trong khi các thanh niên yêu nước đang tìm cách đánh đuổi thực dân Pháp, thì các tướng lãnh này lại can tâm đứng về phe Pháp, chống lại những người chấp nhận hy sinh xương máu để giành lại độc lập cho dân tộc Việt Nam – một hành động coi như phản quốc đối với quan niệm nhiều người.
Đến thời Nguyễn Văn Thiệu, chính nghĩa của VNCH càng bị mất thêm theo bước chân của đội quân viễn chinh Hoa Kỳ, khi chính thức đổ bộ vào Đà Nẵng vào ngày 8/3/1965, bắt đầu cuộc tham chiến trực tiếp tại VN với danh xưng “đồng minh”. Tổng cộng, trong năm 1965 quân số của Mỹ tại Việt Nam đã lên tới con số 184.000. Chi phí quốc phòng của Hoa Kỳ chi tiêu ở Việt Nam trong năm này cũng lên tới 20 tỷ USD. Điều này khiến chiến tranh Việt Nam leo thang liên tục trong nhiều năm sau đó và quân số Mỹ đồn trú tại VN cũng tăng cao kỷ lục, lên tới 550.000 quân vào năm 1969 [14]. Cuộc chiến VN kéo dài, đã làm cho số người Mỹ ủng hộ cuộc chiến đã giảm dần khi cuộc chiến diễn ra. Trong suốt những năm 1960 và đầu thập niên 1970. William L. Lunch và Peter W. Sperlich đã sưu tầm ý kiến công chúng để đánh giá mức độ ủng hộ cuộc chiến từ năm 1965–1971. Những người tham gia cuộc trưng cầu ý kiến được hỏi: "In view of developments since we entered the fighting in Vietnam, do you think the U.S. made a mistake sending troops to fight in Vietnam?" ("Theo như sự leo thang từ khi chúng ta tham chiến ở Việt Nam, bạn có nghĩ nước Mỹ đã phạm sai lầm khi gửi quân đến Việt Nam?"). Họ đã ghi lại kết quả sau: [15]
Tỉ lệ người Mỹ ủng hộ cuộc chiến tại Việt Nam (%)
Năm
65
66
67
68
69
70
71
Tháng
8
3
5
9
11
2
5
7
10
12
2
4
8
11
2
10
2
4
5
1
5
%
52
59
49
48
51
52
50
48
44
48
42
40
35
37
39
32
33
34
36
31
28
Qua bảng số liệu trên cho thấy, người dân Hoa Kỳ đã quay lưng lại với cuộc chiến tại VN. Đầu năm 1966, dân chúng Mỹ ủng hộ cuộc chiến VN chiếm tỉ lệ cao nhất (59%), sau đó giảm dần đến tháng 5/1972 chỉ còn 28%. Thế nên nhiều cuộc biểu tình phản đối chiến tranh VN đã xảy ra nhiều nơi trên nước Mỹ, ngày 21/10/1967 có ít nhất 100.000 người tham gia, khoảng 50.000 người biểu tình sau đó hướng về phía Lầu Năm Góc, trong đoàn biểu tình có một thanh niên đã cắm những bông hoa vào những khẩu súng trường đang nhắm vào đầu anh ta. Tờ Guardian (Anh) đánh giá vụ việc xảy ra tại cơ quan đầu não quân đội Mỹ năm 1967 đã trở thành dấu mốc cho sự thay đổi từ những cuộc biểu tình phản chiến đơn thuần trở thành kháng cự số đông. Nửa triệu người đã diễu hành tại Washington trong năm 1969 phản đối chiến tranh [16].
Lý do quan trọng nhất mà Hoa kỳ nhảy vào một cuộc chiến là quyền lợi của Hoa kỳ. Những mục tiêu khác như bảo vệ nhân dân, tranh thủ nền độc lập, hay xây dựng dân chủ (cho VNCH hay Iraq, hay Afghanitan) thì chỉ là thứ yếu. Năm 1965, trước khi cho TQLC đổ bộ vào Đà Nẵng, trong một cuộc họp mật và cao cấp tại Washington, D.C. vào tháng 1, 1965, Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara và thứ trưởng McNaughton đã nói toạc ra là mục liêu của Mỹ "không phải là để giúp một nước bạn thắng, là để ngăn chặn Trung Cộng" (New York Times, The Pentagon Papers, trang 309). Về việc đưa quân vào Việt nam, trong buổi họp ngày 24 tháng 3, 1965, McNaughton còn tính toán rõ ràng về mục đích của Mỹ theo phần trăm như sau:
- 70% là để tránh một sự thất bại làm bẽ mặt cho Mỹ;
- 20% để giữ Miền Nam khỏi rơi vào tay Trung Cộng; và
- 10% để cho nhân dân Miền Nam được tự do, hạnh phúc (New York Times, The Pentagon Papers, trang 432).
Sự có mặt đông đảo của quân nhân Mỹ tại VN khiến người ta nghĩ ngay tới một đội quân xâm lược, nhất là khi đội quân này vào Việt Nam mà không có sự đồng ý của dân chúng miền Nam. Mỹ đã liên tục thay đổi cấp lãnh đạo miền Nam trong khoảng 1964-1965 để tìm ra người đồng ý cho Mỹ đổ quân vào miền Nam, đó là vị tướng háo danh Nguyễn Khánh (Do chủ trương đưa quân Mỹ vào tham chiến ở Việt Nam và lời tuyên bố "Quân đội là cha quốc gia!" [17][18], uy tín của Nguyễn Khánh càng lúc càng xuống thấp và ngày càng mất lòng dân.
Mười năm sau, cũng vào tháng 3, Mỹ lại có kế hoạch đưa TQLC vào. Nhưng lần này không phải vào Đà Nẵng mà là vào Sài gòn. Không phải vào để tham chiến mà là vào để đưa quân nhân Mỹ rút đi. Kế hoạch rút lui của Mỹ đòi hỏi phải có tới ba chứ không phải hai sư đoàn  - mỗi sư đoàn 18,000 người - cùng với oanh tạc cơ bao phủ vòm trời để yểm trợ. Tại sao lại như vậy? Vì vào thời điểm này, ngoài quân đội Bắc Việt, Mỹ còn lo ngại hơn nữa là phải chạm súng với chính quân lực VNCH! [19]. Trong cùng một mật điện (ngày 17 tháng 4), Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, ông Martin, cũng báo động về Washington: "Có một điều tôi đoan chắc tuyệt đối (deadly certain) là nếu đưa quân đội Hoa kỳ ào ạt vào đây trong điều kiện hiện nay thì họ sẽ phải chiến đấu với quân đội miền Nam để tìm đường tháo chạy" [20] và Kissinger, cũng đã báo cáo rằng, một quan chức Sài gòn có nói với ông: "Nếu các Ngài rút người Mỹ ra và bỏ rơi chúng tôi trong hoạn nạn, các Ngài có thể sẽ phải đánh nhau với một sư đoàn quân đội Miền Nam để có lối ra". Thế nên, Nguyễn Tiến Hưng - Phụ tá Tổng thống Thiệu, Tổng trưởng Kế hoạch của VNCH, là người điều hợp viện trợ trên bình diện kinh tế toàn quốc, làm việc trực tiếp với Tổng thống Thiệu trong những ngày tháng cuối cùng, giáo sư bộ môn kinh tế học tại Đại học Howard, thủ đô Washington D.C. của Hoa Kỳ - đã chua xót thốt lên: Ôi chao, sao lại có thể ê chề đến như vậy? Ăn ngủ với nhau đã vài chục năm, lúc ra đi lại bắn nhau hay sao? [19].
Dựa vào các diễn biến trên chiến trường, chính phủ Hoa Kỳ đã trù liệu đến khả năng có đụng độ quân sự với quân đội VNCH trong quá trình di tản những người Mỹ cuối cùng rời khỏi miền Nam Việt Nam. Tại sao quân đội Hoa Kỳ lo sợ phải đụng độ với quân lực VNCH trong quá trình rút quân khỏi miền Nam? Có phải chính phủ Hoa Kỳ đã sớm nhận thấy sự yếu kém, sự lệ thuộc, sự bám víu của quân đội VNCH vào quân đội Hoa Kỳ, và quan trọng hơn cả là quân lực VNCH thiếu tinh thần chiến đấu nếu không có Hoa Kỳ?
Thậm chí, Kissinger từng nguyền rủa: "Sao chúng không chết phứt cho rồi?" Ông ta rên lên trong xe, "Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống dai dẳng hoài ". (“Why don’t these people die fast?" He moaned in the car. "The worst thing that could happen would be for them to linger on") [21]. Kissinger còn nói với Chu Ân Lai: "Lập trường của chúng tôi là sẽ không duy trì bất cứ Chính phủ nào ở miền Nam cả, và nếu như Chính phủ miền Nam không được nhiều người ưa chuộng như Ngài nghĩ, thì khi quân đội chúng tôi rút đi càng nhanh, nó sẽ bị lật đổ càng lẹ. Và nếu nó bị lật đổ sau khi chúng tôi rút, chúng tôi cũng sẽ không can thiệp nữa" (The New York Times, 28-2-2002).
Có phải miền Nam sụp đổ vì tinh thần dựa dẫm vào Mỹ và quan trọng hơn hết là thiếu ý chí chiến đấu? Như lời Kissinger đã bình luận về cuộc chiến Việt nam, trong một buổi nói chuyện tại Hiệp Hội Nhật Bản ở New York sau ngày miền Nam sụp đổ (16-8-1975): "Những cố gắng từ bên ngoài vào cũng chỉ có thể là bổ túc chứ không thể tạo ra được những cố gắng và ý chí chiến đấu cho người trong nước" [22]. Về chính trị, các bình luận gia thường nêu lên những yếu kém, khuyết điểm của lãnh đạo và nhân dân Miền Nam: Lãnh đạo thì độc tài, thiếu khả năng, quá tin vào Mỹ, tham nhũng, có khi còn xa hoa quá mức. Nhân dân thì chia rẽ, một phần thì thờ ơ, chống đối, chán chường một cuộc chiến dài lê thê [23].
Vì những lý do kể trên, nhiều người không thể tin tưởng vào chế độ VNCH và cuối cùng thì chính phủ Mỹ cũng đã bỏ rơi VNCH không thương tiếc khi cần, như Henry Kissinger đã từng cố vấn cho TT. Nixon: “Thưa Tổng thống, chúng ta chỉ cần tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm, rồi sau đó thì Việt Nam sẽ trở thành một bãi hoang vu.” (‘Tâm Tư Tổng Thống Thiệu,’ Chương 15). Chế độ VNCH bị mất tín nhiệm nghiêm trọng trong mọi tầng lớp xã hội, từ thường dân cho đến giới chức chính khách, chẳng thế mà tướng Đỗ Mậu, (từng là Phó thủ tướng VNCH) đã phải cay đắng nhận xét về Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu như sau: “ … Người thì muốn nối dài biên giới Hoa Kỳ từ Alaska đến sông Bến Hải, người thì đào nhiệm bỏ ngũ khi Hoa Kỳ ngưng viện trợ ‘chống Cộng’…” [24].
Như vậy, liệu một thể chế có được gọi là chính nghĩa, khi “Tổng thống” thực chất chỉ là bù nhìn, tay sai cho ngoại bang (Pháp và Mỹ), quân đội thiếu ý chí chiến đấu, nếu không muốn nói là đánh thuê cho Mỹ. Thế cho nên, VNCH mất đi chính nghĩa, không được đa số ủng hộ, dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng vào năm 1975, như Nguyễn Tiến Hưng đã sửng sốt nhận định: “Sao lẹ vậy?” (trong lời mở đầu của quyển sách Khi Đồng Minh Tháo Chạy): “Ngày 10 tháng ba, 1975 Quân đội Bắc Việt đánh chiếm Ban Mê Thuộc. Đến ngày 30-4 đã tiến vào Sài gon. Tốc độ như vũ bão, vỏn vẹn chỉ có 52 ngày? Không lẽ một cuộc chiến kéo dài tới hai mươi năm, đến khi kết thúc lại nhanh như vậy?”. Theo các sử gia quốc tế, sự độc lập và thống nhất của đất nước, sự ủng hộ của đa số nhân dân đã trở thành yếu tố quyết định giúp những người Cộng sản thắng lợi chứ không phải nhờ vào hệ tư tưởng hay ưu thế quân sự.[25][26][27][28]) (Xin xem bài “Nguyên nhân cuộc chiến Việt Nam 1955-1975” [2][3]).
Nói tóm lại, VNCH thiếu chính nghĩa vì VNCH là chế độ do Mỹ dựng lên để thực hiện chính sách của Mỹ ở VN: Ngăn cản không cho Việt Nam thống nhất - dù sự thống nhất đó được tiến hành theo lối phổ thông đầu phiếu tự do và trong sạch. Đây là một quyết định hết sức sai lầm của chính phủ Mỹ thời bấy giờ: Bất chấp thủ đoạn để giành lấy thị trường Đông Nam Á.
Phóng lao rồi phải theo lao, từ quyết định sai lầm đó, Mỹ phải đem hơn 500.000 quân vào bảo vệ miền Nam với kết quả 58.000 quân nhân Mỹ và hàng triệu người Việt đã hy sinh. Và, đúng theo luật nhân quả: Gieo gió gặt bão, Mỹ bị thua trận và rút quân về nước, trả lại sự thống nhất cho dân tộc Việt Nam. Đây là một bài học cho các thế hệ sau này: không làm tay sai cho ngoại bang để trục lợi cho bản thân hay phe nhóm, vì như vậy sẽ mất đi chính nghĩa.

Mời bạn đọc tiếp bài 2: Chính quyền Việt Nam cộng hòa đã từng độc lập, tự chủ?


Trần Văn Xẻn (Sách hiếm)



_________________
Notes:
1. http://vietsciences.free.fr/.... Joseph Buttinger, Vietnam: A Political History. New York: Frederick A. Praeger, 1968.
2. http://sachhiem.net/LICHSU/TR/TranVanXen.php
3. https://youtu.be/X_Qn0pPZ6TU
4. GIÁO HỘI TRONG CƠN BÃO BÙNG - Linh mục Trần Tam Tĩnh
5. Bùi Kha,  Ngô Đình Diệm - Bảy nguyên nhân Thất bại. 1963 – 2013: Năm Mươi Năm Nhìn Lại, tập hai, chương tám, trang 441, 442, 443. Nhà Xuất bản Thiện Tri Thức Publications P.O. Box 4805 Garden Grove, CA.92842-4805 – USA
6. Jacques Dalloz, The War in Indochina 1945-1954
7. 112. Telegram From the Consulate at Hue to the Department of State
8. United States-Vietnam Relations, 1945-1967, Book 3, page 5; Hilsman, To Move a Nation, tr. 468; Mecklin, Mission in Torment, page 153.
9. Điện văn A-20 từ Huế, ngày 3 tháng 6-1963; Bộ Ngoại Giao, Central Files, SOC 14-1 S VIET.
10. Chiến dịch tổng tấn công các chùa đêm 20-8-1963 và các hệ quả (THE PAGODA RAIDS AND REPERCUSSIONS). Hồ Sơ Mật Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ về Cuộc Chiến VN Giải Mật Ngày 13-6-2011
11. https://vn.sputniknews.com/... Vì sao Mỹ thua trận trong chiến tranh Việt Nam?
12. Trần Bình Nam, Nhìn Lại Kinh Nghiệm Đối Lập Thời VNCH, BBC News, https://www.bbc.com/...
13. Bernard B. Fall, https://vi.wikipedia.org/wiki/... Phạm Văn Phú
14. https://baomoi.com... Vật vã lính Mỹ ngày đầu tham chiến ở Việt Nam
15. Lunch, W. & Sperlich, P. (1979).The Western Political Quarterly. 32(1). pp. 21–44 (https://vi.wikipedia.org/wiki/ Phong_trào_phản_chiến_trong_Chiến_tranh_Việt_Nam)
16. http://vietnamnet.vn/vn... Nhìn lại cuộc biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam ở Mỹ
17. Hoành Linh Đỗ Mậu, Việt Nam máu lửa quê hương tôi. Chương XVIII: Ba năm xáo trộn
18.  Đặng Văn Nhâm, Bí Mật Hậu Trường Chính trị Miền Nam 1954-1975. Quyển 3 (2001)
19.  Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng minh tháo chạy, P4 - Chương 15: Vào để giúp… Ra lại bắn nhau?
20. Mật điện của Đại sứ Martin ngày 26 tháng 4, 1975: N.T. Hưng and J. Schecter, The Palace File, trang 341.
21. Ron Nessen, It sure looks different from the inside, trang 98. (Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng minh tháo chạy. P3 - Chương 13. "Sao chúng không chết phứt cho rồi!")
22. Guenter Lewy, America in Vietnam, trang 441.
23. Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng minh tháo chạy. P5 - Chương 19 - Tại sao sụp đổ
24. Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, NXB Hương Quê (ở Mỹ) - 1986 và NXB Văn Nghệ (ở Mỹ), tái bản năm 1993.
25. Mitchell K.Hall, The Vietnam War, Pearson Education, 2007, p. 3.
26. Michael Bibby, The Vietnam War and Postmodernity, Univ of Massachusetts Press, 2000, p. 202.
27. James Stuart Olson, Historical Dictionary of the 1970s, Published 1999, Greenwood Press, p. 350
28. Frances FitzGerald, Fire in the Lake - The Vietnamese and the Americans in Vietnam, Vintage Books, 1972, p.549.
29. Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng minh tháo chạy, Phần I - Chương 1: Làm sao thoát khỏi vũng lầy.
30. https://www.bbc.com/vietnamese/forum/2014/08/140810_nguyentienhung_nixon_2
31. http://documents.worldbank.org/curated/en/187411468161372611/pdf/multi0page.pdf
32. Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng Minh Tháo Chạy, phần II, chương 5: Thân phận tiểu quốc.
33. Andrew A. Wiest, The Vietnam War, 1956-1975, 2002, Osprey Publishing, tr. 80
34. Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng Minh Tháo Chạy, phần 3, chương 8: Bải cát sa lầy.
35. https://www.bbc.com/ ...Từ Watergate đến sụp đổ Sài Gòn
36. DAVID E. SANGER 11 tháng 3, 1997. Hanoi Agrees to Pay Saigon's Debts to U.S.https://www.nytimes.com/... Hanoi Agrees to Pay Saigon's Debts to U.S.
37. Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng Minh Tháo Chạy, phần 3, chương 8: Cái nhục của kẻ đi cầu xin.
38. Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng minh tháo chạy, P3 - Chương 9: Nhát gươm đao phủ. P. 174.
39. Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng minh tháo chạy, P3 - Chương 12: Hãy giúp chúng tôi. P. 227.
40. Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng Minh Tháo Chạy, phần I, chương 1: Vắt chanh bỏ vỏ.
41. http://sachhiem.net/HOANHLINH/VNML13.php
42. Phạm Trọng Luật, Chế độ Ngô Đình Diệm và vấn đề buôn bán nha phiến. 1963 – 2013 NĂM MƯƠI NĂM NHÌN LẠI, tập một, chương hai, trang 204. Nhà Xuất bản Thiện Tri Thức Publications P.O. Box 4805 Garden Grove, CA.92842-4805 – USA
43. http://www.daichung.com/77/05_quan_y.shtm
44. https://vietbao.com/... Hậu Quả Bài Trừ Tham Nhũng Nhớ Ông Già Gân Nam Kỳ Trần Văn Hương
45. http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-45949919.html
46. https://groups.google.com/forum/... ĐẶNG VĂN NHÂM -TRỰC TIẾP VỚI THƯỢNG SĨ Q.C. DƯƠNG VĂN HẢO, NHÂN CHỨNG ĐỒNG THỜI LÀ NẠN NHÂN CHÍNH TRONG VỤ BUÔN LẬU “ CÒI HỤ LONG AN”
47. http://www.ivietnamese.com/forums/showthread.php?t=357433
48. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Văn_Thiệu/ Mục: Trở thành Tổng thống
46. http://sachhiem.net/LICHSU/TR/TQD04.php
47. https://hoanghuuphuocvietnam.wordpress.com/.. Việt Nam Cộng Hòa – Đảng Chính Trị
48. Nguyễn Hy Thần, Danh từ “Công giáo”: Chữ và nghĩa. 1963 – 2013 NĂM MƯƠI NĂM NHÌN LẠI, tập một, chương hai, trang 154. Nhà Xuất bản Thiện Tri Thức Publications P.O. Box 4805 Garden Grove, CA.92842-4805 – USA
49. https://vi.m.wikipedia.org/... Đảng Cần lao Nhân vị
50. Trần Văn Đôn, Đảng Cần Lao và các Tổ chức ngoại vi. 1963 – 2013 NĂM MƯƠI NĂM NHÌN LẠI, tập một, chương hai, trang 174. Nhà Xuất bản Thiện Tri Thức Publications P.O. Box 4805 Garden Grove, CA.92842-4805 – USA
51. David Dellinger, "Vietnam Revisited", trang 35.
52. Loren Baritz, Ballantine Books "Backfire: Vietnam - The Myths That Made Us Fight, the Illusions That Help Us Lose, The Legacy That Haunts Us Today". New York 1985, trang 83-85.
53. Bernard Newman "Background to Vietnam". Signet Books, New York 1965, trang 117.
54. https://www.biography.com/people/ferdinand-marcos-9398625
55. Robert McAfee Brown, Abraham J. Heschel & Michael Novak, "Vietnam: Crisis of Conscience" . Associated Press, New York 1967, trang 30.
56. "A Bright Shining Lie" của Neil Sheehan, Vintage Books, New York 1989, trang 143.
57. https://bienxua.wordpress.com/... Một góc khác của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
58. Frances FitzGerald, p. 528
59. Nigel Cawthorne, Tên “Ngô Đình Diệm” trong danh sách 100 kẻ bạo ngược độc ác và độc tài nhất trong lịch sử nhân loại. 1963 – 2013 NĂM MƯƠI NĂM NHÌN LẠI, tập ba, chương tám, trang 520. Nhà Xuất bản Thiện Tri Thức Publications P.O. Box 4805 Garden Grove, CA.92842-4805 – USA
60. https://vi.wikipedia.org/wiki/... Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963
61. https://thuvienhoasen.org/... NGÔ ĐÌNH NHU MUỐN THAY THẾ ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
62. Người Việt Đáng Yêu, (Lời Mở Đầu) Nhà xuất bản Sáng Tạo, Sài Gòn, 1965. Đăng lại trên Tạp chí Việt Nam Hải Ngoại số 8 ngày 15-9-1977, San Diego, Hoa Kỳ.
63. https://www.history.com/this-day-in-history/diem-murdered-during-coup
64. Võ Văn Sáu, Một điển hình tàn ác của nhà Ngô. 1963 – 2013 NĂM MƯƠI NĂM NHÌN LẠI, tập một, chương hai, trang 297. Nhà Xuất bản Thiện Tri Thức Publications P.O. Box 4805 Garden Grove, CA.92842-4805 – USA
65. https://vi.wikipedia.org/wiki/... Cuộc chỉnh lý tại Việt Nam Cộng hòa 1964
66. https://www.history.com/... 1965 Demonstrations erupt in Saigon and Hue
67. Trần Bình Nam, Nhìn Lại Kinh Nghiệm Đối Lập Thời VNCH, BBC News, https://www.bbc.com/vietnamese/forum/2012/06/120614_opposition_rvn_comment
68. Erich Wulff, Tường trình tại Liên Hiệp Quốc (9/1963). 1963 – 2013 NĂM MƯƠI NĂM NHÌN LẠI, tập ba, chương sáu, trang 200. Nhà Xuất bản Thiện Tri Thức Publications P.O. Box 4805 Garden Grove, CA.92842-4805 – USA
69. Lý Nguyên Diệu, Quy luật của tháng tám định mệnh. 1963 – 2013 NĂM MƯƠI NĂM NHÌN LẠI, tập ba, chương tám, trang 550, 551, 552. Nhà Xuất bản Thiện Tri Thức Publications P.O. Box 4805 Garden Grove, CA.92842-4805 – USA
70. FRUS (Foreign Relations of the United States) của Bộ Ngoại Giao Mỹ, 1961-1963, Tập IV, dưới đề mục 186, tiểu mục 652.2.b, trang 386.
71. Nguyễn Kha, “Vua Lê” Ngô Đình Diệm  và “Chúa Trịnh” Ngô Đình Nhu. Hồ sơ mật 1963 từ các nguồn tài liệu của chính phủ Mỹ, trang 234.
72. George C. Herring, John Wiley & Sons, "America's Longest War", New York 1979, trang 62-65. Ông George C. Herring là Tiến sĩ Sử học tại University of Virginia. Ông là Giáo sư Danh dự về Lịch sử tại đại học University of Kentucky và giáo sư thỉnh giảng tại Trường Võ bị West Point. Là một chuyên gia về lịch sử bang giao quốc tế của Mỹ, ông chủ yếu đặt trọng tâm các nghiên cứu vào chủ đế Việt Nam. Ông được giải thưởng Robert Ferrell 2008 của “Hội các nhà Sử học về Bang giao Quốc tế của Hoa Kỳ” (SHAFR).
73. John Cooney, "The American Pope", A Dell Book, New York 1984, trang 309-312. Ông John Cooney là một Phóng viên báo Wall Street Journal, cũng là một trong 4 người đã từng trách nhiệm viết Tự truyện cho Hồng y Mỹ Francis Spellman, vị giáo chức Công giáo La Mã đở đầu cho ông Ngô Đình Diệm thâm nhập vào chính giới Mỹ và sau đó là Tổng Tuyên úy của Quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam.
74. Dennis Bloodworth; Farrar, Straus & Giroux, "An Eye For The Dragon". New York 1970, trang 209. Ông Dennis Bloodworth là Thông tín viên Viễn Đông của tạp chí Anh The Observer, ông là một chuyên gia về châu Á trong nhiều thập kỷ (1930-1970). Từ 1954 đến 1973, ông đặc biệt theo dõi tình hình Đông Dương, và cho ra đời tác phẩm An Eye for the Dragon: South-East Asia.
75. https://vi.wikipedia.org/... Ký giả đi ăn mày
76. Nguyễn Kha, Chế độ NĐD, chế độ Ngược lòng dân và Phản thời đại. 1963 – 2013 NĂM MƯƠI NĂM NHÌN LẠI, tập ba, chương tám, trang 417. Nhà Xuất bản Thiện Tri Thức Publications P.O. Box 4805 Garden Grove, CA.92842-4805 – USA
77. Nguyễn Kha, Chế độ NĐD, chế độ Ngược lòng dân và Phản thời đại. 1963 – 2013 NĂM MƯƠI NĂM NHÌN LẠI, tập ba, chương tám, trang 436. Nhà Xuất bản Thiện Tri Thức Publications P.O. Box 4805 Garden Grove, CA.92842-4805 – USA
78. Trần Lâm, Kiêu dân Công giáo thời Ngô Đình Diệm. 1963 – 2013 NĂM MƯƠI NĂM NHÌN LẠI, tập một, chương hai, trang 139. Nhà Xuất bản Thiện Tri Thức Publications P.O. Box 4805 Garden Grove, CA.92842-4805 – USA
79. Frances Fitzgerald, Vintage Books, "Fire In The Lake", New York 1985, trang 134-139. Bà Frances FitzGerald là nhà báo (The New Yorker, Foreign Policy, …), nhà nghiên cứu, khôi nguyên hai giải thưởng báo chí Pulitzer và U.S. National Book Award in Contemporary Affairs. Bà từng là Phó Chủ tịch của tổ chức Văn bút Quốc tế PEN International.
80. Hồ sơ mật 1963 từ các nguồn tài liệu của chính phủ Mỹ, trang 128.
81. Chính Ðạo, Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967 (Houston: Văn Hóa, 1994).
82. Archives du Ministère des Affaires Etrangères [AMAE] (Paris), Cambodge-Laos-Vietnam [CLV], Sud Vietnam [SV], 17:7073
83. http://sachhiem.net/SACHNGOAI/snT/TranVanXen.php.
84. http://xenvantran.wordpress.com/
85. Chính Đạo, MÙA PHẬT ÐẢN ÐẪM MÁU. 1963 – 2013 Năm mươi năm nhìn lại, Tập III, Chương Sáu, Kim cương bất hoại - Hoa sen trong biển lửa, trang 34-36-41-42.
86. Nguyễn Lang, Sinh viên và học sinh đứng dậy. 1963 – 2013 Năm mươi năm nhìn lại, Tập III, Chương Sáu, Kim cương bất hoại - Hoa sen trong biển lửa, trang 138-139.
87. http://tphcm.chinhphu.vn/.. Sài Gòn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
88. https://nghiencuulichsu.com/2016.. Một số phong trào đấu tranh của sinh viên Miền Nam Việt Nam (1954-1975)
89. Alan Dawson, 55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ - Cao Minh trích dịch. Nhà xuất bản Sự thật 1990. Chương 2: Mở màn
90. https://vi.wikipedia.org/wiki/... Quân lực Việt Nam Cộng hòa
91. Công báo Việt Nam Cộng hòa, trích Nghị định số 922 GD/NĐ tổ chức kỳ thi phổ thông, tiếng Việt ở bậc sơ đẳng và trung đẳng tại vùng Cao nguyên miền Nam và ấn định thành phần giám khảo những kỳ thi này, số 52 ra ngày 10-11-1956, Bản lưu tại Thư viện Viện Sử học, tr.2803.
92. http://www.danchimviet.info/... Nguyễn Văn Hải- Điếu Cày: Mười năm nhìn lại một chặng đường/
93. https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/witne-tlk-ab-svn-flag-dcay-10292014135647. html
94. http://khoahoc-kythuat.blogspot.com/2014/10/... RE: VẤN ĐỀ ĐIẾU CÀY TỪ CHỐI CẦM CỜ VNCH

95. https://baovecovang2012.wordpress.com/2014/11/10/.. Điếu Cày Nguyễn Văn Hải KHÔNG BAO GIỜ ĐỨNG DƯỚI LÁ CỜ VÀNG! (Hàn Giang Trần Lệ Tuyền)

Tags:

Lưu ý: Khi để lại Nhận xét bạn nên click vào ô "Thông báo cho tôi" ở dưới để nhận phản hồi từ Admin

Học tiếng anh
Floating Image X